Nếu được đi thực tế nhiều chắc mình còn có thể viết được nhiều hơn như thế này. Sau đây là chuyện ngắn mới viết đang chờ in trên tạp chí mỹ thuật của phụ huynh - ông già trong ngõ nhỏ. Mời các bạn đón đọc.
Tháng 3 năm 1972, chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc ngày càng dữ dội khốc liệt. Để tăng cường cho ty Văn hóa thông tin Vĩnh Linh lúc bấy giờ, Bộ Văn hóa Thông tin cử một đoàn vào ty bảy người, những người đã từng công tác khu tư nhiều, trong đó có tôi và anh Dương Đăng Cẩn. Do vậy bọn tôi đã gặp Nguyễn Vinh, họa sĩ duy nhất của ty, một mình lo sáng tác, kẻ vẽ pano áp phích phục vụ cho toàn Vĩnh Linh và nhất là đầu cầu Hiền Lương.
Thời chiến, tôi đi nhiều vẽ nhiều không những khu tư, Trường Sơn mà còn cả vùng biên giới Việt Trung. Nhưng đến thời bình thì ít đi, ít tiếp xúc, mỗi năm đến Hội, xuân thu nhị kỳ: họp ngành, hội mừng xuân cuối năm. Nhân xuân Mậu Tí, ngày ông Táo chầu trời, Hội Mỹ thuật tổ chức gặp gỡ hội viên. Ngày ấy gặp Nguyễn Vinh tôi mới biết anh ra học và làm việc ở Hà Nội đã lâu. Trông Vinh có khác, khác ở chỗ có một bộ ria đen kít; nhưng đem bỏ nó đi thì trở lại nguyên bản là Nguyễn Vinh – Vĩnh Linh một thời bom đạn, vẫn tươi trẻ và nhanh nhẹn như bao giờ.
Qua trao đổi thăm hỏi, tôi cho anh biết đang còn giữ được mấy tấm ảnh chụp với nhau thời gian “tăng cường” ngày nào. Anh hẹn đến tôi chơi và có ý muốn in lại mấy tấm ảnh kỷ niệm đó. Khoảng đầu tháng 8 năm nay, nhân tìm tài liệu để vẽ, tôi thấy ngay mấy ảnh Vĩnh Linh 72. Ảnh hơi nhỏ, lấy máy ảnh chụp lại theo chế độ macro, kết quả không tồi ! Thế là tôi có ý định rửa ảnh để tặng Vinh. Nhưng chưa kịp thực hiện được, thì qua Tạp chí Mỹ thuật tôi mới biết anh vừa mất. Thật đột ngột !
Xúc động và buồn, tôi miên man nghĩ nhiều về Vinh, về những kỷ niệm khó quên hồi cùng sống và công tác nơi đất lửa Vĩnh Linh… hiện ra… rõ nét…
… Cùng kẻ vẽ, cùng đi treo pano áp phích.
Anh Cẩn và tôi, người điêu khắc kẻ hội họa nhưng trong đoàn chúng tôi đều cùng hội cùng thuyền. Tới Vĩnh Linh, chúng tôi được chia ghép ngay vào tổ họa, tổ trưởng Nguyễn Vinh !
Sau khi cả đoàn được nghe lãnh đạo ty báo cáo một loạt tình hình kinh tế, chính trị, quân sự… tại địa phương và khu vực tổ họa chúng tôi bắt tay vào việc. Chính là việc vẽ pano áp phích tuyên truyền cổ động. Tổ trưởng phác thảo, chúng tôi góp ý, lãnh đạo duyệt xong thể hiện ngay.
Vinh có cá tính đặc biệt là vào lúc rảnh rỗi, chờ việc thì ngủ thoải mái say sưa, không bị tiếng bom nổ, đạn réo, máy bay gầm rú làm ảnh hưởng; lúc có việc thì lao động say mê, dẻo dai, bền bỉ, đáng khâm phục.
Vậy là chẳng bao lâu chúng tôi đã hoàn thành tranh áp phích lớn gồm 4 pano to ghép lại, sẵn sàng mang treo lắp ở vị trí gần đầu cầu Hiền Lương.
Đến đây, phải nhắc tới một nhân vật khá quan trọng trong tổ họa đó là anh Tống người Quảng Trị, trẻ, nhanh, hiền hậu và tình cảm. Thường anh chuyên kẻ, bổ chữ, nay thêm nhiệm vụ lo sinh hoạt đời sống cho tổ.
Chiều hôm ấy sau khi anh Tống và phụ động chuẩn bị cho pano lên ô tô xong, chúng tôi xuất phát hướng về cầu Hiền Lương. Tới nơi, nhanh chóng ai nấy khuân vác, lắp buộc pano vào khung giá đỡ có sẵn bên lề đường gần cầu. Trong lúc lắp ghép, cột buộc tranh, khó chịu nhất là phải nghe tiếng máy bay, một loại máy bay do thám rất nguy hiểm có bộ khung trơ ra như cái rọ lợn, lúc gần lúc xa. Làm xong mọi người lên xe ô tô chưa kịp khởi động Vinh liếc mắt nhìn lại áp phích, tự nhiên mặt ngây ra rồi vội kêu lên:
- Chết cha rồi, xuống !
- Sao ?
- Cái gì !?
- Pano lắp ngược, lắp ngược ! Tháo ngay, đặt lại mau !
Mọi người ào xuống, thao tác rất nhanh, một lúc sau pano đã gỡ và cột buộc đúng vị trí của nó.
- Lên xe !
Chiều đã muộn, hoàng hôn xuống nhanh, phía Nam trời đỏ quạch như màu máu, lóe lên trên nền ấy những đốm pháo sáng lơ lửng rơi từ từ. Lảng vảng bóng đen một vài quạ sắt lướt lướt xa xa…
Xe chạy chưa đầy năm phút, tiếng động cơ phản lực theo sau lớn dần. Xe lao vào một lùm cây to khựng lại, mọi người nhảy xuống, không ai bảo ai chui tọt vào cái cống lớn dưới đường ngay đấy.
Xoẹt..xoẹt..oẹt. Bùm…ùm!!
Hai phát rốc két vừa nổ xong lái xe lao ra hét:
- Lên xe, lên xe!
Xe chúng tôi lao vút về ty. Đến nhà mọi người thở phào. Vinh nhếch mép cười nói với tôi:
- Suýt chết hai lần !
… Trung ương “tăng cường”, ty cũng “tăng cường” !
Thường tổ họa chúng tôi có năm người, anh Vinh, anh Tống, anh Cẩn, tôi và một phụ động, ngày ngày hoạt động kẻ vẽ ngoài trời dưới bóng cây, màu mè đủ thứ bày ra đất. Nguyên cái dáng mọi người chạy đi chạy lại, đứng lên, ngồi xuống, nghiền màu, chấm màu, pha màu, đưa bút qua lại trên mặt vải pano liên tục, đủ chứng tỏ chúng tôi làm việc vất vả tích cực như thế nào. Nói về tạo dáng thì chúng tôi có phần hơn hẳn các tổ thông tin, văn thơ, nhiếp ảnh… chắc chắn họ cũng có nhiều thành tích lắm. Song, khốn nỗi cái nghề của chúng tôi nó cứ phải lộ ra ánh sáng nhiều nên bắt buộc ai cũng phải nhìn, phải thấy hiệu quả làm việc thay đổi từng giờ, từng ngày và cuối cùng là một pano áp phích xuất hiện rất hoành tráng. Qua đó lãnh đạo ty cũng cảm động về tác phong cùng kết quả lao động của tổ họa.
Một chiều thứ 7, sau bữa cơm chiều; mà sao chiều ấy bình lặng đến thế, không tiếng phản lực, không một tiếng nổ. Anh Tống vào lán tươi cười vừa nói vừa giơ lên trước mặt mọi người một con vịt khoảng ngót nghét cân rưỡi, kêu càng cạc:
- Trung ương “tăng cường”, ty cũng “tăng cường” cho “ăn” (anh) em hè !
Vinh, Tống tìm nơi nhốt vịt. Hứa hẹn một sáng chủ nhật có bữa tươi cải thiện đáng kể, mọi người vui mừng khấp khởi.
Đêm xuống, may bay tiêm kích địch hoạt động khác thường. Trên báo xuống: Chuẩn bị có B52. Khoảng 22h trên trời ầm ì tiếng máy bay nặng nề đều đều, có lúc như tiếng vo vo, voọc voọc vọng xuống.
Vinh giục chúng tôi:
- Các anh ! B52 ! Xuống hầm, xuống… !
Bom nổ hàng loạt rền vang rất đều từng đợt, từng đợt, xa gần lại xa gần… không khí như loãng ra rồi ép lại, địa đạo rung chuyển trao đảo, muốn hất người và vật chỗ này sang chỗ khác.
Cuối cùng khu vực ty “cắm” không bị “dính”. Hú vía !
Sáng sớm hôm sau, khi Tống và Vinh thăm chỗ nhốt vịt, thì … vịt đã mất tăm mất tích rồi !
Hai anh chạy ngược chạy xuôi, anh thì kêu “kíu kíu” anh thì gọi “cạc cạc”. Rồi có tiếng Vinh hét to:
- Đây rồi ! … Đấy !
Mừng quá cả tổ chạy đến chỗ cầu tiêu. Hỡi ơi. Mừng hụt ! Vịt đã rơi xuống hầm cầu từ bao giờ rồi. Chính cửa hầm và đoạn địa đạo này đã đưa vào làm chỗ sử dụng “đầu ra” cho cả cơ quan ty. Rơi xuống đây thì chỉ có nhập mà không có xuất.
- Đấy, rõ ràng có tiếng vịt mà !
- Ừ, nhưng … bây giờ mất hẳn rồi
- Mất hút con mẹ hàng lươn còn gì - Vinh lạnh lung lẩm bẩm.
- Tại B52 đêm qua đấy. Ha ha !! Ta quyết diệt giặc thù... ta...qu..uyết...
- Này ! Thôi đi ông.
Tiu ngỉu, mọi người bỏ của đi về lán. Tống vuốt hậu một câu:
- Chá, sè phuc thú, cấn chí mố ! (Chà, sẽ phục thù, cần gì đâu !)
Đúng, ngay ngày chủ nhật sau chúng tôi đã phục thù bằng một trận chén cháo cóc đỗ xanh, ngọt hơn mỳ chính, mà hàm lượng protein vịt phải tôn vinh cóc bằng “cụ”.
... Khóc...khóc đồng đồng đội...khóc đồng bào !
Con người sinh ra ở trên đời, ai cũng có lúc phải khóc. Vốn quan niệm nữ dễ khóc, nam không dễ khóc vì bản chất cứng rắn, biết tự kiệm chế trước những xúc động bi lụy. Thường tình lại cho rằng những người lính, những con người thường xuyên sống trong bom đạn, cái chết luôn rình rập, thương vong quanh mình, hóa chai sạn mà không hề biết rơi lệ. Cũng phải mà cũng không đúng !
Là người dân miền Bắc thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mọi người đều hiểu: đất lửa Vĩnh Linh chết chóc thường xuyên, thương vong liên tục, chồng chất nối đuôi nhau. Người ta nói đất này ngày nào, nhà nào cũng có giỗ; không sai ! Cho nên những người còn sống trụ lại nơi đây trước cái chết của người thân, đồng đội, đồng bào đều nén thương đau trong tim, không khóc. Cũng phải mà cũng không đúng !
Một buổi chiều cũng như mọi buổi chiều khác nơi Vĩnh Linh, bỗng hai con quạ sắt Mỹ bay qua vãi ra một loạt bom bi chỗ chúng tôi ở. Người vợ của một công nhân viên trong ty thương vong. Chập tối, ty làm lễ viếng và chôn cất. Anh Cẩn, Vinh và tôi đi viếng. Trong cái không gian nơi viếng người ra đi ảm đạm và buồn thê thảm. Nhiều người đã khóc thực ra ai cũng khóc. Mỗi người khóc một kiểu, một cách. Tôi nghĩ con người mà tổ chúng tôi cho là “man” nhất – đàn ông nhất, vai năm tấc rộng thân mười thước cao là Dương Đăng Cẩn, chắc không có khóc ! Nhưng, anh ấy đã khóc như nữ nhi thường tình. Có lẽ chẳng ai chịu nổi khi nhìn thấy anh ta khóc, nó gộc ghệch, nó vụng về chân thật đau xót đến tận đáy của nó. Cái cơ nâng chung môi trên và môi dưới của anh ta hoạt động bất bình thường, nhễ nhại khiến kích động mọi người khóc nhiều hơn. Tôi khóc là chuyện bình thường vì hay đa cảm đa sầu. Còn Nguyễn Vinh tuy rất xúc động vẫn tỏ ra cứng rắn lạnh lùng nhưng mắt thì đỏ hoe, môi trên thì run rẩy không ra cười mà cũng không ra khóc.
Đến bây giờ tôi nghĩ và tưởng tượng lúc đó mà Vinh có bộ ria như lúc sinh thời gần đây thì tôi không thể khóc được như bình thường mà... dở mếu, dở cười !
Những dòng chữ trên đây như những đoạn hồi ký, thay cho nén tâm nhang, tưởng niệm người họa sĩ Vĩnh Linh – Nguyễn Vinh một thời bom đạn.
NGUYỄN VINH một thời bom đạn
Họa sĩ. Nguyễn Huy Tuấn
Họa sĩ. Nguyễn Huy Tuấn
(Trên cửa hầm Vĩnh Linh - 1972 -
Họa sĩ Nguyễn Huy Tuấn - papa của bác Cáo, Họa sĩ Tống, Họa sĩ Nguyễn Vinh)
Thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước, tôi cùng đội ngũ các anh em sáng tác của xưởng phim Đèn chiếu hay vào công tác khu tư, suốt một dọc từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh. Đi công tác một nhóm thường là ba người: Họa sĩ, nhiếp ảnh và biên tập; làm phim “Người tốt việc tốt” tại chỗ và chiếu phim tại chỗ luôn, góp phần tuyên truyền động viên quân dân ta sản xuất và chiến đấu nơi bom đạn.
Họa sĩ Nguyễn Huy Tuấn - papa của bác Cáo, Họa sĩ Tống, Họa sĩ Nguyễn Vinh)
Tháng 3 năm 1972, chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc ngày càng dữ dội khốc liệt. Để tăng cường cho ty Văn hóa thông tin Vĩnh Linh lúc bấy giờ, Bộ Văn hóa Thông tin cử một đoàn vào ty bảy người, những người đã từng công tác khu tư nhiều, trong đó có tôi và anh Dương Đăng Cẩn. Do vậy bọn tôi đã gặp Nguyễn Vinh, họa sĩ duy nhất của ty, một mình lo sáng tác, kẻ vẽ pano áp phích phục vụ cho toàn Vĩnh Linh và nhất là đầu cầu Hiền Lương.
Thời chiến, tôi đi nhiều vẽ nhiều không những khu tư, Trường Sơn mà còn cả vùng biên giới Việt Trung. Nhưng đến thời bình thì ít đi, ít tiếp xúc, mỗi năm đến Hội, xuân thu nhị kỳ: họp ngành, hội mừng xuân cuối năm. Nhân xuân Mậu Tí, ngày ông Táo chầu trời, Hội Mỹ thuật tổ chức gặp gỡ hội viên. Ngày ấy gặp Nguyễn Vinh tôi mới biết anh ra học và làm việc ở Hà Nội đã lâu. Trông Vinh có khác, khác ở chỗ có một bộ ria đen kít; nhưng đem bỏ nó đi thì trở lại nguyên bản là Nguyễn Vinh – Vĩnh Linh một thời bom đạn, vẫn tươi trẻ và nhanh nhẹn như bao giờ.
Qua trao đổi thăm hỏi, tôi cho anh biết đang còn giữ được mấy tấm ảnh chụp với nhau thời gian “tăng cường” ngày nào. Anh hẹn đến tôi chơi và có ý muốn in lại mấy tấm ảnh kỷ niệm đó. Khoảng đầu tháng 8 năm nay, nhân tìm tài liệu để vẽ, tôi thấy ngay mấy ảnh Vĩnh Linh 72. Ảnh hơi nhỏ, lấy máy ảnh chụp lại theo chế độ macro, kết quả không tồi ! Thế là tôi có ý định rửa ảnh để tặng Vinh. Nhưng chưa kịp thực hiện được, thì qua Tạp chí Mỹ thuật tôi mới biết anh vừa mất. Thật đột ngột !
Xúc động và buồn, tôi miên man nghĩ nhiều về Vinh, về những kỷ niệm khó quên hồi cùng sống và công tác nơi đất lửa Vĩnh Linh… hiện ra… rõ nét…
… Cùng kẻ vẽ, cùng đi treo pano áp phích.
Anh Cẩn và tôi, người điêu khắc kẻ hội họa nhưng trong đoàn chúng tôi đều cùng hội cùng thuyền. Tới Vĩnh Linh, chúng tôi được chia ghép ngay vào tổ họa, tổ trưởng Nguyễn Vinh !
Sau khi cả đoàn được nghe lãnh đạo ty báo cáo một loạt tình hình kinh tế, chính trị, quân sự… tại địa phương và khu vực tổ họa chúng tôi bắt tay vào việc. Chính là việc vẽ pano áp phích tuyên truyền cổ động. Tổ trưởng phác thảo, chúng tôi góp ý, lãnh đạo duyệt xong thể hiện ngay.
Vinh có cá tính đặc biệt là vào lúc rảnh rỗi, chờ việc thì ngủ thoải mái say sưa, không bị tiếng bom nổ, đạn réo, máy bay gầm rú làm ảnh hưởng; lúc có việc thì lao động say mê, dẻo dai, bền bỉ, đáng khâm phục.
Vậy là chẳng bao lâu chúng tôi đã hoàn thành tranh áp phích lớn gồm 4 pano to ghép lại, sẵn sàng mang treo lắp ở vị trí gần đầu cầu Hiền Lương.
Đến đây, phải nhắc tới một nhân vật khá quan trọng trong tổ họa đó là anh Tống người Quảng Trị, trẻ, nhanh, hiền hậu và tình cảm. Thường anh chuyên kẻ, bổ chữ, nay thêm nhiệm vụ lo sinh hoạt đời sống cho tổ.
Chiều hôm ấy sau khi anh Tống và phụ động chuẩn bị cho pano lên ô tô xong, chúng tôi xuất phát hướng về cầu Hiền Lương. Tới nơi, nhanh chóng ai nấy khuân vác, lắp buộc pano vào khung giá đỡ có sẵn bên lề đường gần cầu. Trong lúc lắp ghép, cột buộc tranh, khó chịu nhất là phải nghe tiếng máy bay, một loại máy bay do thám rất nguy hiểm có bộ khung trơ ra như cái rọ lợn, lúc gần lúc xa. Làm xong mọi người lên xe ô tô chưa kịp khởi động Vinh liếc mắt nhìn lại áp phích, tự nhiên mặt ngây ra rồi vội kêu lên:
- Chết cha rồi, xuống !
- Sao ?
- Cái gì !?
- Pano lắp ngược, lắp ngược ! Tháo ngay, đặt lại mau !
Mọi người ào xuống, thao tác rất nhanh, một lúc sau pano đã gỡ và cột buộc đúng vị trí của nó.
- Lên xe !
Chiều đã muộn, hoàng hôn xuống nhanh, phía Nam trời đỏ quạch như màu máu, lóe lên trên nền ấy những đốm pháo sáng lơ lửng rơi từ từ. Lảng vảng bóng đen một vài quạ sắt lướt lướt xa xa…
Xe chạy chưa đầy năm phút, tiếng động cơ phản lực theo sau lớn dần. Xe lao vào một lùm cây to khựng lại, mọi người nhảy xuống, không ai bảo ai chui tọt vào cái cống lớn dưới đường ngay đấy.
Xoẹt..xoẹt..oẹt. Bùm…ùm!!
Hai phát rốc két vừa nổ xong lái xe lao ra hét:
- Lên xe, lên xe!
Xe chúng tôi lao vút về ty. Đến nhà mọi người thở phào. Vinh nhếch mép cười nói với tôi:
- Suýt chết hai lần !
… Trung ương “tăng cường”, ty cũng “tăng cường” !
Thường tổ họa chúng tôi có năm người, anh Vinh, anh Tống, anh Cẩn, tôi và một phụ động, ngày ngày hoạt động kẻ vẽ ngoài trời dưới bóng cây, màu mè đủ thứ bày ra đất. Nguyên cái dáng mọi người chạy đi chạy lại, đứng lên, ngồi xuống, nghiền màu, chấm màu, pha màu, đưa bút qua lại trên mặt vải pano liên tục, đủ chứng tỏ chúng tôi làm việc vất vả tích cực như thế nào. Nói về tạo dáng thì chúng tôi có phần hơn hẳn các tổ thông tin, văn thơ, nhiếp ảnh… chắc chắn họ cũng có nhiều thành tích lắm. Song, khốn nỗi cái nghề của chúng tôi nó cứ phải lộ ra ánh sáng nhiều nên bắt buộc ai cũng phải nhìn, phải thấy hiệu quả làm việc thay đổi từng giờ, từng ngày và cuối cùng là một pano áp phích xuất hiện rất hoành tráng. Qua đó lãnh đạo ty cũng cảm động về tác phong cùng kết quả lao động của tổ họa.
Một chiều thứ 7, sau bữa cơm chiều; mà sao chiều ấy bình lặng đến thế, không tiếng phản lực, không một tiếng nổ. Anh Tống vào lán tươi cười vừa nói vừa giơ lên trước mặt mọi người một con vịt khoảng ngót nghét cân rưỡi, kêu càng cạc:
- Trung ương “tăng cường”, ty cũng “tăng cường” cho “ăn” (anh) em hè !
Vinh, Tống tìm nơi nhốt vịt. Hứa hẹn một sáng chủ nhật có bữa tươi cải thiện đáng kể, mọi người vui mừng khấp khởi.
Đêm xuống, may bay tiêm kích địch hoạt động khác thường. Trên báo xuống: Chuẩn bị có B52. Khoảng 22h trên trời ầm ì tiếng máy bay nặng nề đều đều, có lúc như tiếng vo vo, voọc voọc vọng xuống.
Vinh giục chúng tôi:
- Các anh ! B52 ! Xuống hầm, xuống… !
Bom nổ hàng loạt rền vang rất đều từng đợt, từng đợt, xa gần lại xa gần… không khí như loãng ra rồi ép lại, địa đạo rung chuyển trao đảo, muốn hất người và vật chỗ này sang chỗ khác.
Cuối cùng khu vực ty “cắm” không bị “dính”. Hú vía !
Sáng sớm hôm sau, khi Tống và Vinh thăm chỗ nhốt vịt, thì … vịt đã mất tăm mất tích rồi !
Hai anh chạy ngược chạy xuôi, anh thì kêu “kíu kíu” anh thì gọi “cạc cạc”. Rồi có tiếng Vinh hét to:
- Đây rồi ! … Đấy !
Mừng quá cả tổ chạy đến chỗ cầu tiêu. Hỡi ơi. Mừng hụt ! Vịt đã rơi xuống hầm cầu từ bao giờ rồi. Chính cửa hầm và đoạn địa đạo này đã đưa vào làm chỗ sử dụng “đầu ra” cho cả cơ quan ty. Rơi xuống đây thì chỉ có nhập mà không có xuất.
- Đấy, rõ ràng có tiếng vịt mà !
- Ừ, nhưng … bây giờ mất hẳn rồi
- Mất hút con mẹ hàng lươn còn gì - Vinh lạnh lung lẩm bẩm.
- Tại B52 đêm qua đấy. Ha ha !! Ta quyết diệt giặc thù... ta...qu..uyết...
- Này ! Thôi đi ông.
Tiu ngỉu, mọi người bỏ của đi về lán. Tống vuốt hậu một câu:
- Chá, sè phuc thú, cấn chí mố ! (Chà, sẽ phục thù, cần gì đâu !)
Đúng, ngay ngày chủ nhật sau chúng tôi đã phục thù bằng một trận chén cháo cóc đỗ xanh, ngọt hơn mỳ chính, mà hàm lượng protein vịt phải tôn vinh cóc bằng “cụ”.
... Khóc...khóc đồng đồng đội...khóc đồng bào !
Con người sinh ra ở trên đời, ai cũng có lúc phải khóc. Vốn quan niệm nữ dễ khóc, nam không dễ khóc vì bản chất cứng rắn, biết tự kiệm chế trước những xúc động bi lụy. Thường tình lại cho rằng những người lính, những con người thường xuyên sống trong bom đạn, cái chết luôn rình rập, thương vong quanh mình, hóa chai sạn mà không hề biết rơi lệ. Cũng phải mà cũng không đúng !
Là người dân miền Bắc thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mọi người đều hiểu: đất lửa Vĩnh Linh chết chóc thường xuyên, thương vong liên tục, chồng chất nối đuôi nhau. Người ta nói đất này ngày nào, nhà nào cũng có giỗ; không sai ! Cho nên những người còn sống trụ lại nơi đây trước cái chết của người thân, đồng đội, đồng bào đều nén thương đau trong tim, không khóc. Cũng phải mà cũng không đúng !
Một buổi chiều cũng như mọi buổi chiều khác nơi Vĩnh Linh, bỗng hai con quạ sắt Mỹ bay qua vãi ra một loạt bom bi chỗ chúng tôi ở. Người vợ của một công nhân viên trong ty thương vong. Chập tối, ty làm lễ viếng và chôn cất. Anh Cẩn, Vinh và tôi đi viếng. Trong cái không gian nơi viếng người ra đi ảm đạm và buồn thê thảm. Nhiều người đã khóc thực ra ai cũng khóc. Mỗi người khóc một kiểu, một cách. Tôi nghĩ con người mà tổ chúng tôi cho là “man” nhất – đàn ông nhất, vai năm tấc rộng thân mười thước cao là Dương Đăng Cẩn, chắc không có khóc ! Nhưng, anh ấy đã khóc như nữ nhi thường tình. Có lẽ chẳng ai chịu nổi khi nhìn thấy anh ta khóc, nó gộc ghệch, nó vụng về chân thật đau xót đến tận đáy của nó. Cái cơ nâng chung môi trên và môi dưới của anh ta hoạt động bất bình thường, nhễ nhại khiến kích động mọi người khóc nhiều hơn. Tôi khóc là chuyện bình thường vì hay đa cảm đa sầu. Còn Nguyễn Vinh tuy rất xúc động vẫn tỏ ra cứng rắn lạnh lùng nhưng mắt thì đỏ hoe, môi trên thì run rẩy không ra cười mà cũng không ra khóc.
Đến bây giờ tôi nghĩ và tưởng tượng lúc đó mà Vinh có bộ ria như lúc sinh thời gần đây thì tôi không thể khóc được như bình thường mà... dở mếu, dở cười !
Những dòng chữ trên đây như những đoạn hồi ký, thay cho nén tâm nhang, tưởng niệm người họa sĩ Vĩnh Linh – Nguyễn Vinh một thời bom đạn.
No comments:
Post a Comment